Tóm tắtMục tiêuĐể đánh giá liệu việc đo mức độ protein nhau thai 13 (PP‐13) và protein liên quan đến thai kỳ A (PAPP‐A) trong huyết thanh mẹ ở khoảng thời gian từ 11 + 0 đến 13 + 6 tuần có ích trong việc dự đoán những phụ nữ sẽ phát triển tiền sản giật hay không, khi kết hợp với chỉ số tần số mạch động mạch tử cung ở quý hai được đo bằng siêu âm Doppler.Phương phápĐây là một nghiên cứu nhóm điều tra có kiểm soát đối chứng của các trường hợp tiền sản giật với các đối chứng được ghép theo tuổi thai và thời gian bảo quản huyết thanh mẹ. Mẫu máu được thu thập như một phần của chương trình sàng lọc dị tật nhiễm sắc thể ở quý đầu và thường xuyên được kiểm tra mức PAPP‐A. Mức PP‐13 được kiểm tra bằng phương pháp xét nghiệm miễn dịch liên kết enzym (ELISA) bởi một giám định viên không biết kết quả thai kỳ. Tất cả bệnh nhân cũng đã trải qua siêu âm Doppler để đo chỉ số tần số mạch trung bình (PI) ở tuần 22-24 của thai kỳ.Kết quảCó 446 đối chứng và 44 trường hợp tiền sản giật sớm trong đó việc sinh được kích thích trước tuần thứ 35. Thêm vào đó, còn có 44 trường hợp tiền sản giật không được kích thích sinh trước kỳ hạn. Mức PP‐13 trung vị cho nhóm đối chứng, tất cả các trường hợp và các trường hợp tiền sản giật sớm lần lượt là 176.9, 121.9 và 111.7 pg/mL, với bội số trung vị (MoMs) lần lượt là 1.00, 0.69 và 0.63 (P < 0.001). MoMs của PAPP‐A lần lượt là 1.00, 0.89 (P = 0.076) và 0.89 (P = 0.042) và PI trung bình lần lượt là 1.0, 1.6 (P < 0.001) và 1.7 (P < 0.001) cho các đối chứng, tất cả các trường hợp và các trường hợp sớm. Phân tích đường cong ROC cho tất cả các trường hợp hoặc các trường hợp sớm so với đối chứng đã cho ra diện tích dưới đường cong cho PP‐13, PAPP‐A và PI lần lượt là 0.68 (95% CI, 0.61–0.74; P < 0.001), 0.56 (95% CI, 0.49–0.63; P = 0.076) và 0.79 (95% CI, 0.72–0.87; P < 0.001) cho tất cả các trường hợp và 0.71 (95% CI, 0.63–0.79; P < 0.001), 0.59 (95% CI, 0.51–0.68; P = 0.076) và 0.86 (95% CI, 0.77–0.94; P < 0.001) cho các trường hợp sớm. Tại độ nhạy được thiết lập là 0.80, độ nhạy lần lượt là 0.50, 0.23 và 0.76 cho PP‐13, PAPP‐A và PI trong các trường hợp sớm và 0.44, 0.24 và 0.73 ở tất cả các trường hợp. Kết hợp PP‐13 và PI với phân tích hồi quy logistic cho ra diện tích dưới đường cong là 0.84 (95% CI, 0.78–0.90; P < 0.001) và độ nhạy 0.74 cho tất cả các trường hợp, và 0.90 (95% CI, 0.84–0.96; P < 0.001) và độ nhạy 0.79 cho các trường hợp sớm. Kết hợp PAPP‐A với PI cho diện tích dưới đường cong là 0.82 (95% CI, 0.76–0.90; P < 0.001) và độ nhạy 0.76 cho tất cả các trường hợp. Kết hợp PAPP‐A với PP‐13 và PI không làm tăng đáng kể độ nhạy.Kết luậnCác mức PP‐13 ở quý đầu có thể hữu ích trong việc dự đoán tiền sản giật và tiền sản giật sớm, và độ chính xác của phương pháp này tăng lên khi kết hợp với việc đo PI Doppler ở quý hai. Mặc dù PAPP‐A ở quý đầu cung cấp một số dự đoán cho tiền sản giật khi kết hợp với PI, nhưng không làm tăng khả năng dự đoán tiền sản giật sớm khi PP‐13 và PI được sử dụng cùng nhau. Các nghiên cứu bổ sung là cần thiết để xác định giá trị thực sự của PP‐13 trong sàng lọc tiền sản giật ở quý đầu. Bản quyền © 2006 ISUOG. Xuất bản bởi John Wiley & Sons, Ltd.